BÍ TÍCH RỬA TỘI CHÚA GIÊSU THIẾT LẬP Trong bài giáo lý hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về việc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Rửa tội và những hậu quả bí tích này đem lại cho chúng ta. Khi trình bày về các bí tích, chúng ta đã thấy: - Nước và lời đọc của Bí tích Rửa tội cũng như dấu bề ngoài của các bí tích khác, tự nó không đem lại hậu quả nào cho linh hồn. Sở dĩ nó chuyển thông cho chúng ta ơn thánh là vì chính Chúa Giêsu đã lập. Vậy Chúa Giêsu đã lập bí tích Rửa tội khi nào? Ðọc lại Phúc âm, chúng ta thấy có ba trường hợp liên quan tới vấn đề này. Trước hết, khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đến với Gioan tiền hô và chịu phép rửa bên bờ sông Giođan. Nếu so sánh cho thấu đáo, chúng ta sẽ thấy phép rửa của Gioan tiền hô không phải là một bí tích, nhưng chỉ đơn giản là một nghi thức tượng trưng, nói lên rằng cần phải thanh tẩy tâm hồn, như nước vốn được dùng để thanh tẩy thể xác. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại lãnh nhận phép rửa sám hối của Gioan tiền hô? Thánh Âugustinô đã đem lại cho chúng ta câu trả lời: - Sở dĩ Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa của Gioan tiền hô là để nêu gương cho chúng ta. Thực vậy, là đấng thánh thiện tuyệt vời, Ngài không cần đến bất cứ nghi thức thanh tẩy và sám hối nào cả. Thế nhưng, khi thân xác Ngài tiếp xúc với giòng nước, thì giòng nước được thánh hóa để có thể đem lại cho chúng ta những hậu quả siêu nhiên. Tiếp đến, cuộc tiếp xúc với Nicôđêmô. Hẳn chúng ta đã biết, Nicôđêmô là một người vị vong trong dân Do thái. Ông kính phục và dành cho Chúa Giêsu nhiều cảm tình tốt đẹp. Ông muốn tìm hiểu thêm về giáo lý của Ngài nhưng vì sợ người Do thái dị nghị, ông không dám tìm gặp Chúa vào ban ngày ban mặt, nhưng ông đã tìm gặp Chúa vào ban đêm. Và trong cuộc trao đổi thân mật ấy, Chúa Giêsu đã đề cập tới sự cần thiết phải lãnh nhận bí tích Rửa tội để được ơn cứu độ. Ngài nói với ông: - Nếu ai không sinh lại bởi nước và Chúa Thánh Thần thì không được vào nước Thiên Chúa. Sau cùng, trước khi về trời. Chúa Giêsu đã tụ tập các môn đệ lại và truyền cho các ông: - Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Ai tin và chịu phép Rửa tội thì sẽ được cứu rỗi. Và như vậy, với một vài lời ngắn ngủi chúng ta thấy được chính Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Rửa tội, ấn định những dấu bên ngoài và nói lên sự cần thiết của Bí tích này. Như chúng ta đã biết, để trở thành môt Bí tích thì phải hội đủ ba điều kiện: - Một là dấu bề ngoài, hai là Chúa Giêsu đã lập, ba là ơn bề trong. Vậy Bí tích Rửa tội đem lại cho tâm hồn chúng ta những hậu quả nào? HẬU QUẢ CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI Hậu quả thứ nhất, đó là bí tích Rửa tội sẽ xóa bỏ tội tổ tông và tất cả những tội riêng chúng ta phạm. Một trong những công dụng của nước là tẩy sạch. Chẳng hạn khi thân thể bị nhơ nhớp, chúng ta ra sông tắm, tắm xong chúng ta cảm thấy mát mẻ, sạch sẽ và dễ chịu. Khi quần áo chúng ta bị dơ bẩn, chúng ta cũng đem giặt giũ ở dưới sông, nước sẽ tẩy xóa những dơ bẩn ấy đi. Cũng thế dòng nước rửa tội sẽ tẩy sạch mọi vết nhơ của tội tổ tông và tội riêng trong tâm hồn chúng ta, làm cho nó trở nên trong sạch, xứng đáng là một đền thờ, một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị. Hậu quả thứ hai, đó là Bí tích Rửa tội ban ơn thánh hóa. Thiên Chúa dựng nên con người có hồn và xác. Hồn kết hiệp với xác và làm nên sự sống tự nhiên. Thế nhưng, Thiên Chúa còn muốn ban cho con người một ơn huệ cao cả, đó là được tham dự vào sự sống của Ngài. Sự sống ấy chúng ta gọi là ơn thánh hóa. Với ơn thánh hóa, con người vẫn giữ nguyên sự sống nhân loại của mình, nhưng những hành động của họ lại có một giá trị cao vời. Cây tầm xuân, tự nó chỉ có thể trổ sinh những cánh hoa dại. Ðó là điều hết sức tự nhiên, phù hợp với bản tính của nó. Nhưng nếu chúng ta đem ghép một mắt của loại hồng quí vào thân cây tầm xuân và chịu khó chờ đợi. Phía trên mắt ghép. Cây hoa dại nhận được một dòng nhựa mới, một sinh lực mới, một sự sống mới. Giòng nhựa này, sinh lực này, sự sống này sẽ làm cho nó nở tươi những cánh hồng xinh đẹp. Ðiều đó đối với cây tầm xuân dại, không phải là điều tự nhiên, nhưng là một cái gì mới lạ thêm vào bản tính tự nhiên, thêm vào sự sống bình thường của nó. Một cái gì vượt trên sự tự nhiên và bình thường ấy. Ơn thánh hóa cũng vậy, là việc tham dự vào bản tính và sự sống của chính Thiên Chúa. Ðó không phải là một điều tự nhiên thuộc bản tính con người, nhưng là điều được Thiên Chúa ban thêm cho chúng ta. Vì thế, đó là một ân huệ siêu nhiên. Ơn huệ siêu nhiên này, giòng nước ơn thánh này, chúng ta có được kể từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chính vì thế, chúng ta phải ý thức và nhất là cảm tạ Chúa vì ơn thánh hóa, vì sự sống siêu nhiên mà Bí tích Rửa tôi đem lại cho chúng ta. Năm nào cũng vậy, thánh Vincentê Feriê đều tổ chức mừng ngày chịu phép rửa tội. Vào đúng ngày ấy, thánh nhân dâng một thánh lễ tại chính ngôi nhà nguyện mà ngày xưa, khi mới lọt lòng mẹ, thánh nhân được đem đến để chịu phép Rửa tội. Vua Louis IX của nước Pháp, thường ký tên là Louis de Poissy. Vì Poissy mình là tên xứ đạo, nơi nhà vua được lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Nhà vua nói: - Ta chỉ có sợ một điều, đó là tội trọng, vì tội trọng sẽ giết chết sự sống mà ta đã lãnh nhận được ở Poissy. Ngày Rửa Tội là ngày chúng ta được sinh ra cho sự sống của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã diễn tả một cách rất ý vị về vấn đề này như sau: - Ðối với chúng ta, có hai ngày sinh nhật. Một ngày chúng ta được sinh ra cho trần gian, còn một ngày chúng ta được sinh ra cho Nước trời. Một ngày chúng ta được sinh ra cho xác thịt, còn một ngày chúng ta được sinh ra cho tinh thần. Một ngày chúng ta được sinh ra bởi người cha và người mẹ, còn một ngày chúng ta được sinh ra bởi Thiên Chúa và Giáo hội. Một ngày chúng ta được sinh ra làm con cái sự chết, còn một ngày chúng ta được sinh ra làm con cái sự sống. Một ngày chúng ta được sinh ra dưới gông cùm tội lỗi, còn một ngày chúng ta được sinh ra dưới sự giải thoát khỏi gông cùm ấy. Cùng với hai hậu quả kể trên, Bí Tích Rửa Tội còn đem lại cho chúng ta một hậu quả đặc biệt quan trọng khác nữa, đó là trả lại cho chúng ta địa vị làm con Thiên Chúa và Giáo hội. Thời bấy giờ, Pharaon ra chiếu chỉ phải tận diệt mọi con trai trong dòng tộc Do thái. Có một thiếu phụ Do thái vừa mới sinh được một mụn con trai. Thấy con khôi ngô và tuấn tú, bà liền nuôi dấu nuôi diếm được ba tháng. Biết chuyện không xuôi, bà lấy một chiếc thúng, tráng nhựa rồi đặt con nằm trong đó và đem thả giữa đám lau sậy bên giòng sông. Lúc bấy giờ, nàng công chúa con vua Pharaon xuống sông tắm. Nhìn thấy chiếc thúng trong đám lau sậy, nàng bèn sai nữ tì tới vớt lên. Mở thúng ra và thấy một đứa trẻ đang khóc. Chị đứa trẻ được mẹ sai đi canh chừng vội chạy đến và thưa với công chúa: - Nếu công chúa bằng lòng, tôi sẽ đi tìm một thiếu phụ Do thái để lo chuyện bú mớm, nuôi dưỡng đứa bé. Ðược công chúa bằng lòng, đứa chị liền dẫn mẹ tới. Công chúa nói với bà ấy: - Hãy nuôi đứa trẻ này và ta sẽ trả công cho ngươi. Người mẹ nhận con và đem về nuôi. Khi đứa bé khôn lớn, bà trao lại cho công chúa...Nàng đã nhận đứa trẻ làm con nuôi và đặt tên cho là Maisen nghĩa là "được vớt lên khỏi nước". Trước kia, Maisen bị liệt vào số những kẻ phải chết. Nếu nay mắn sống sót thì cũng chỉ kéo lê kiếp sống nô lệ đọa đầy với những công việc nặng nhọc và vất vả. Thế nhưng bây giờ, Maisen thuộc vào giai cấp quý tộc, được nuôi dưỡng và giáo dục trong cung điện nhà vua, nhất là có một địa vị cao trong xã hội. Với chúng ta cũng vậy, trước khi lãnh nhận dòng nước Rửa tội, chúng ta là những kẻ phải chết, cái chết phần xác và nhất là cái chết phần hồn. Thế nhưng, nhờ dòng nước Rửa tội, chúng ta được Thiên Chúa nhận làm con và được quyền thừa hưởng phần gia nghiệp nước trời. Tuy nhiên, chúng ta là con Thiên Chúa theo ý nghĩa nào? Có phải là con Thiên Chúa theo lề lối tự nhiên hay không? - Chắc hẳn là không. Vậy có phải là con theo sự chấp nhận đỡ đầu hay không? - Cũng không hẳn là thế. Nó nằm ở giữa hai trạng thái ấy. Chắc hẳn chúng ta là con Thiên Chúa do việc thừa nhận vì Ngài chỉ có một người con theo bản tính, đó là Ngôi hai. Nhưng nhờ ơn thánh hóa, chức vị làm con Thiên Chúa của chúng ta lại vượt xa chức làm con theo sự thừa nhận và đỡ đầu của nhân loại. Khi nhận một đứa bé làm con nuôi, mặc dù người ta lấy tên dòng họ mình mà đặt cho nó, cũng như cho nó được thừa hưởng phần gia nghiệp, nhưng người ta không thể nào chuyên thông cho đứa bé dòng máu của mình. Trái lại, Thiên Chúa không những chuyển thông cho chúng ta tước hiệu và quyền thừa kế, mà còn cho chúng ta được tham dự vào bản tính và sự sống của Ngài. Nhờ ơn thánh hóa chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, không phải chỉ có tiếng có tăm, nhưng thực sự là như thế. Vì vậy, chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha với đầy đủ ý nghĩa và tâm tình của danh xưng ấy. Chính vì thế, chúng ta phải tự hào và hãnh diện về địa vị cao cả của chúng ta. Ðồng thời phải cố gắng sống xứng đáng địa vị cao cả ấy bằng cách luôn chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong lòng cuộc đời của chúng ta. |
|