NGHỈ
Chuyện phiếm của Gã siêu.
Cái nắng ban trưa thật chói chang như đổ lửa, oi bức đến độ làm cho mồ hôi mồ kê chảy xuống ròng ròng của miền Nam Việt Nam nhiệt đới; Ðang vật lộn với giấc ngủ chập chờn, thì bỗng chuông điện thoại reo vang. Lồm cồm bò dậy, tưởng người đẹp nào cơ chứ, ai dè hóa ra lại cụ chủ nhiệm đáng kính nhà ta. Sau một hồi vòng vo tam quốc, cà kê dê ngỗng đủ thứ chuyện trên trời cũng như dưới đất, kể cả chuyện "chính chị chính em" làm gã nghe khoái cái "lỗ nhĩ" mê hồn trận rồi cụ chủ nhiệm ta mới "dô đề":
- Thiên hạ bên tây sắp dắt nhau đi nghỉ hè rồi đó, chú mày mau viết cho một mẩu, gọi là để bàn dân thiên hạ đề cao cảnh giác, phòng bệnh còn hơn chữa bệnh nhé.
- Giữa lúc còn đang ngái ngủ, gã bèn trả lời "phăng xi lô" chẳng so đo và tính toán:
- Ôi giào, chuyện nhỏ mà.
Bây giờ ngồi vào bàn, đầu óc rỗng tuênh, bởi vì từ hồi cha sinh mẹ đẻ cho tới lúc này, đã ngoài măn mươi tuổi rồi, mà nào có biết hè hiếc là đí gì đâu. Chỉ khi còn là "chú học trò thò lò mũi xanh" thì mới được nghỉ, bằng cách "tung hê" sách vở, rời xa trường lớp, về quê với bu được mấy tháng. Chứ một khi đã thò chân vào cuộc đời, thì làm gì có cơ may được đi hè trong tình trạng thắt lưng buộc bụng, kinh tế suy thoái, mắc chứng "viêm màng túi kinh niên", làm không đủ ăn như hiện nay ở Việt Nam. Và thế là gã bỗng nghiệm ra rằng:
- Không cái dại nào bằng cái dại mồm dại miệng. Bởi vì như các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Một lời vừa tuột ra khỏi miệng, thì bốn ngựa cũng khó mà đuổi theo kịp!
Thành thử những người khôn ngoan mới khuyên nhủ:
- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
Ðã trót hứa với cụ chủ nhiệm, thì cũng phải cố mà làm, như Nguyễn Du đã bảo:
- Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem con tạo xoay vần đến đâu?
Tuy nhiên vẫn tự trách mình là sao cứ mỗi lần cụ chủ nhiệm bí! gọi mình là mình cứ phải vâng lời ổng phăng phắc vậy? Rồi lại tự hỏi mà sao lần này cụ ấy không viết quách cho rồi mà lại gọi mình! Cụ đăng báo cụ đi nghỉ hè! còn mình cứ lôm côm mãi thế này mà cụ lại bảo mình viết về "cái ấy" thì thật là bất công!
Ðể lấy khí thế cũng như tạo thêm niềm hứng khởi, gã bèn đứng lên, bắn một điếu thuốc lào. Thuốc ngấm vào tận lục phủ ngũ tạng, thở phào một cái và lim dim đôi mắt theo làn khói tỏa, gã bỗng thấy cuộc đời mới đẹp làm sao. Và thế là vội chạy ngồi vào bàn mà viết lấy viết để, kẻo tí nữa nó lại quên béng đi mất.
Phần lớn người Việt Nam hôm nay sống trên mảnh đất mà nhà nước Việt Cộng quản lý hơn nửa thế kỷ nay, chả ai dám nghĩ tới chuyện nghỉ hè. Cũng như phần lớn người Việt Nam ở nước ngoài, khi mới chân ướt chân ráo tới định cư ở một quê hương thứ hai, chả dám tơ tưởng đến việc xách va-li cùng với bà xã và bày trẻ đi tắm biển hay lên núi thở hút những lọn khí trong lành! và nếu có đi thì cũng "dấm dúi" vào nhà bà con ở chỗ nào đó để ăn nhậu và nói chuyện đời xưa "oanh liệt" của mình thôi! Vì những người đàn ông Việt Nam thường khi lên làm bố bầy nhóc thì thường hay thấy cuộc đời mình rất oanh liệt để kể cho bầy con cháu và làng xóm nghe! Nhất là có chút bia rượu vào nữa thì nhất định phải kể chuyện cuộc đời vĩ đại của mình như "có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng..."
Sở dĩ như vậy vì hôm nay ở Việt Nam và ngày xưa mới là dân tỵ nạn tại Âu-Mỹ, mình chỉ là thân trâu ngựa, nai lưng ra kéo cày để mà kiếm sống. Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm! Trong những ngày tháng xám xịt ấy thì nghỉ có nghĩa là bản thân và gia đình phải...treo niêu. Bởi vì:
- Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Hơn thế nữa, đồng lương trong những giờ làm phụ trội ấy cũng nhích hơn một chút, nên người ta hy vọng rằng sẽ "ky cóp" được thêm tí tiền còm giúp gia đình còn kẹt lại Việt Nam, và nhất là bảo đảm cho những sinh hoạt cần thiết cũng như cho tương lai về lâu về dài, bởi vì:
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
- Năng nhặt thì chặt bị.
Cho đến hôm nay, cuộc sống đã được ổn định và tương lai đã lóe sáng, chứ không còn âm u như chiều đông ảm đạm hay tăm tối như cuối con đường hầm, người ta mới bắt đầu tính đến chuyền đi nghỉ hè và mơ ước những giờ phút thênh thang, thoải mái lang bang thăm chỗ này chỗ nọ. Có người ở Âu-Mỹ còn xây cả nhà cửa lâu đài ở Việt Nam để phòng về nghỉ hè với thân nhân...
Bây giờ "đi nghỉ hè" đối với nhiều người Việt Nam ở nước ngoài, không phải là một cái "mốt thời thượng" theo kiểu "phú quí sinh lễ nghĩa", hay "trưởng giả học làm sang" nữa, mà là một nhu cầu chính đáng, vừa hợp tình lại vừa hợp lý.
Thực vậy, trong một bản nhạc có nốt bổng thì cũng có nốt trầm, có dấu ngân thì cũng có dấu lặng. Nếu cứ bổng mãi và cứ ngân mãi thì hẳn sẽ đứt gân cổ lăn quay ra mà chết. Còn nếu cứ trầm hoài, lặng hoài thì đâu phải là bản nhạc nữa.
Horace, một thi sĩ gốc La mã, trong tác phẩm Odes đã viết như sau:
- Thần Apollo đâu có dương mãi cây cung của mình.
Lời phát biểu này muốn nói lên rằng:
- Ðối với cây cung, có lúc dương thì cũng phải có lúc chùng. Chứ cứ dương mãi dương hoài, lúc nào dây cũng căng cũng thẳng, thì chẳng bao lâu nó sẽ bị gẫy hay bị đứt.
Tác giả sách Giảng viên trong Cựu ước đã xác định đại khái như sau:
- Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời.
Một thời để chào đời, một thời để lìa thế...
Một thời để khóc lóc, một thời để vui cười...
Một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng...
Một thời để yêu thương, một thời để thù ghét...
Một thời để gây chiến, một thời để làm hòa.
Và như thế, ắt phải có:
- Một thời để làm việc, một thời để nghỉ ngơi.
Gã xin "no table" nghĩa là miễn bàn tới những kẻ mắc bệnh "lươi huyền" mãn tính, hay nói một cách cụ thể hơn, mang tật lười biếng quanh năm, bởi vì họ nghỉ suốt hai mươi bốn trên hai mươi bốn, họ chơi suốt ngày này qua ngày khác, chẳng cần cuối tuần hay hè hiếc chi cả. Ở đâu không biết chứ như gã thường được nghe ở Thụy Sĩ, hoặc ở một vài nước Âu châu, có những người phải được gọi là "nghỉ hè suốt đời", bởi lẽ từ ngày sang Âu Châu đến nay chẳng đi làm được một ngày. Vì nghỉ suốt, nên cứ phải ngửa tay ăn xin xã hội! Nếu có đi làm, thì lại vờ vĩnh mắc chứng nọ tật kia để được nghỉ.
Ca dao tục ngữ đã diễn tả rất nhiều về họ. Trước hết họ là hạng người "há miệng chờ sung". Chuyện rằng tại ngôi làng nọ có một anh chàng lười vào hạng siêu đẳng, được tôn làm sư phụ. Mặc dù bụng đang đói cồn đói cạo, nhưng lại được nằm dưới gốc một cây sung đầy trái chín, thế mà vị sư phụ khả kính này cũng chẳng thèm đứng lên, hái mà ăn, cứ nằm há mồm và chỉ nhai tóp tép trái nào rơi vào chính miệng mình mà thôi. Vì thế, chẳng bao lâu sư phụ bèn giã từ cõi sống mà về chầu tiên tổ.
Thứ đến, họ là hạng người làm ít ăn nhiều. Làm chẳng bao nhiêu mà ăn thì quả là...có vấn đề:
- Ăn như rồng cuộn, làm như cà cuống lội ngược.
- Ăn như thuyền chở mã, làm như ả chơi trăng.
Tác phong của họ được mô tả:
Ăn thì ăn những miếng ngon,
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm.
Ăn rồi nằm ngả nằm nghiêng,
Có ai lấy tớ thì khiêng tớ về.
Hình ảnh tiêu biểu cho hạng người lười này là hình ảnh của một ông chú...thân thương:
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Ðêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Ðối với những người chăm chỉ làm việc, nghỉ ngơi không phải chỉ là một quyền lợi, mà nhiều lúc còn là một bổn phận cần làm ngay, nghĩa là... phải nghỉ, phải ngơi.
Nói thế, hẳn nhiều người cho rằng gã đang về hùa với những kẻ lười biếng, chỉ thích ngồi nhà mát mà ăn những bát vàng. Ðứng trước mọi công việc, chỉ thầm mong được người ta chọn làm người chỉ đạo nghĩa là đứng chỉ tay mà chẳng phải đụng vào, hay được người ta bầu làm giám đốc nghĩa là chỉ dám đốc, dám xúi mà lại chẳng dám làm.
Thế nhưng, ở đây gã xin thề độc thề địa:
- Chết sa... đó là sự thật.
Bởi vì phen này gã nói có sách, mách có chứng hẳn hoi, chứ chẳng phải tán hiêu tán vượn và phệu ra đâu nhé.
Thực vậy, trong Tin mừng có lần Chúa Giêsu đã xác quyết:
- Cha Ta làm việc và Ta cũng làm việc.
Mà theo luật thì:
- Ðã làm việc cật lực thì cũng phải được nghỉ ngơi.
Ðúng thế, Sách Sáng thế ký đã kể lại việc Thiên Chúa dựng nên trời và đất cùng muôn vật muôn loài như sau:
Ngày thứ nhất Ngài dựng nên ánh sáng, rồi phân rẽ ánh sáng và bóng tối, Ngài gọi ánh sáng là ngày và bóng tối là đêm. Ngày thứ hai Ngài dựng nên một cái vòm và nước, rồi phân rẽ chúng, Ngài gọi cái vòm là trời. Ngày thứ ba Ngài bắt nước phải tụ lại một nơi để lộ ra chỗ cạn. Ngài gọi chỗ cạn là đất và khối nước là biển, rồi đất trổ sinh mọi thứ cây cỏ. Ngày thứ tư Ngài dựng nên mặt trời mặt trăng cùng muôn vì tinh tú. Ngày thứ năm Ngài dựng nên chim trời cá biển cùng mọi loài sinh vật trên mặt đất. Ngày thứ sáu Ngài dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Thế rồi ngày thứ bảy, sau khi hoàn tất công trình, Ngài đã nghỉ ngơi.
Không những Thiên Chúa nghỉ ngơi mà Ngài còn muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng nghỉ ngơi như vậy sau khi đã làm việc. Ðúng thế, sách Xuất hành đã kể lại việc Thiên Chúa truyền cho ông Mai sen mười điều răn được khắc ghi trên hai bia đá tại đỉnh Sinai. Ðiều răn thứ ba đã mói rõ như sau:
- Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ, dù đang vụ cày hay vụ gặt, ngươi cũng sẽ nghỉ.
Ðiều răn này rất quan trọng và được quy định một cách khắt khe:
- Ngày thứ bẩy sẽ là một ngày thánh, một ngày sabát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dành cho Ðức Chúa, kẻ nào làm việc trong ngày ấy sẽ bị xử tử. Anh em sẽ không được đốt lửa trong ngày sabát tại những nơi mình ở. Dân Do thái đã tuân giữ điều răn này một cách rất nghiêm minh. Trên đường trở về miền đất hứa, họ phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm và suốt khoảng thời gian này, Thiên Chúa đã nuôi sống họ bằng manna bởi trời. Thế nhưng, họ phải lượm manna ngay từ hôm trước mà dành sẵn cho ngày thứ bảy. Thậm chí khi bị quân địch xông đánh vào ngày thứ bảy, họ thà chịu chết chứ không cầm vũ khí chống cự.
Từ chỗ nghiêm minh họ đã đi đến chỗ khắt khe và thái quá. Chính vì thế chúng ta hiểu được tại sao bọn biệt phái lại chỉ trích việc Chúa Giêsu chữa lành cho những người đau ốm vào ngày thứ bảy.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã có lập trường dứt khoát của riêng mình:
- Ngày sabát được phép làm điều lành...Ngày sabát được dựng nên vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát.
Như vậy việc nghỉ ngơi ngày sabát thời xưa hay ngày Chúa nhật thời nay là một điều răn buộc phải tuân giữ. Cùng với sự ổn định về kinh tế, trong dịp cuối tuần người ta được nghỉ không phải chỉ một ngày mà những hai ngày, đó là ngày thứ bảy và Chúa nhật.
Lần kia, sau khi các môn đệ đi thực tập truyền giáo trở về và đang kể cho Ngài nghe những việc mình đã làm và những điều mình đã dạy, Chúa Giêsu liền khuyên các ông như sau:
- Các con hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.
Như vậy nghỉ ngơi quả là một điều cần thiết, bởi vì kinh nghiệm bản thân cho thấy:
- Có nghỉ ngơi thì mới hoàn tất một cách tốt đẹp, hay ít nữa có nghỉ ngơi thì mới bắt đầu lại một cách hăng say.
Vì thế, sau một giờ học chăm chỉ người ta có những giây phút giải lao. Sau một ngày làm việc miệt mài, người ta có những giờ ban đêm để ngủ nghỉ. Sau một tuần làm việc cần cù người ta có những ngày cuối tuần để xả hơi. Sau một năm làm việc vất vả, người ta có những tuần phép để đi đây đi đó, mà gã xin tạm gọi chung chung là đi...nghỉ hè. Và sau một đời làm việc nhọc nhằn, người ta có những tháng năm để...hưu dưỡng.
Nghỉ ngơi không phải chỉ là điều cần thiết, mà lắm lúc còn là điều bắt buộc:
- Phải nghỉ ngơi để lấy lại sức khỏe cho bản thân, phải nghỉ ngơi để có thời giờ chăm sóc cho gia đình và những người thân yêu.
Nhiều đứa con đã hư hỏng chỉ vì cha mẹ mải mê mánh mung không để ý tới chúng. Nhiều ông chồng đã mất toi bà vợ "xinh xỉnh xình xinh" của mình cũng chỉ vì miệt mài áp phe áp chảo hay ngâm kíu ngâm kiếc, yêu việc hơn yêu vợ, không ngó ngàng chi đến nhà với cửa, tới khi "ngộ ra" thì quá muộn, nàng đã xé toạc tờ hôn phối hay đã khăn gói bước theo kẻ khác để được chiều chuộng và quan tâm hơn.
Nghỉ ngơi là điều cần thiết và bó buộc, thế nhưng, phải nghỉ ngơi như thế nào? Ðó mới là chuyện quan trọng cần phải bàn bạc. Gã tạm chia sự nghỉ ngơi làm hai loại, sự nghỉ ngơi của quí vị con nít và sự nghỉ ngơi của quí vị người nhớn. Trước hết là sự nghỉ ngơi của quí vị con nít.
Như chúng ta đã biết con nít vốn hiếu động, nhất là bọn nhóc tì "húi cua", vì thế trong những lúc rảnh rỗi, không thể nào bắt chúng ngồi yên như pho tượng hay quì "chắp tay xỏ lỗ mũi" mà cầu nguyện hồi lâu, bởi vì chúng luôn nghí ngoáy, quay bên nọ, ngó bên kia. Ðối với chúng, nghỉ có nghĩa là chơi. Hễ lúc nào nghỉ ngơi là lăn xả vào vui chơi lúc ấy. Nhưng phải chơi ra làm sao?
Các cụ ta ngày xưa vốn căn dặn:
- Học ăn học nói học gói học mở.
Ðiều căn dặn này cho thấy chúng ta phải học tất cả từ những điều tầm thường và nhỏ mọn nhất. Chơi tuy dễ mà lại khó, tuy đơn giản mà lại phức tạp, bởi vì rất nhiều người đã chẳng chơi cho phải phép. Chính vì thế, trên lá cờ của thế vận hội người ta thêu hai chữ "Fair Play", có nghĩa là "Chơi Ðẹp". Ðể được chơi đẹp, thiết tưởng những người có trách nhiệm hướng dẫn nên nhắc quí vị con nít mấy điều sau đây:
Thứ nhất là phải chơi cho đúng lúc.
Thực vậy, người ta thường bảo:
- Giờ nào việc nấy.
Học thì phải cho ra học, còn chơi thì phải cho ra chơi. Ngồi trong lớp học, thay vì nghe thày cô giảng bài, lại vác cờ ca-rô ra mà chơi với nhau, chắc chắn là bất ổn rồi. Thời giờ là vàng. Hãy biết lợi dụng nó để trau dồi kiến thức, làm giàu cho bản thân và làm đẹp cho cuộc sống. Bởi vì thời giờ đã qua đi thì sẽ chẳng bao giờ trở lại.
Người xưa cũng đã xác quyết:
- Ấu bất học, lão hà vi.
Bé mà không học, thì lớn lên chỉ còn cách "bị gậy" đi ăn mày. Lúc đó có hối tiếc thì e rằng đã quá muộn.
Thứ hai là phải chơi cho đúng nơi.
Thực vậy, người ta cũng thường bảo:
- Mỗi việc đều có chỗ của nó.
Nhà thờ là để cầu nguyện. Trường lớp là để học hành. Sân bãi là để vui chơi. Nếu chúng ta lộn chuồng, chẳng hạn: chơi trong trường lớp, cầu nguyện ngoài sân bãi và học trong nhà thờ...thì quả thực chẳng ổn tí nào.
Thứ ba là phải chơi cho đúng cách.
Trong một cuốn sách bàn về thể thao, một tác giả Ăng lê đã viết như sau:
- Ðừng bao giờ đổ lỗi cho người khác cũng như đừng bao giờ ăn gian và che dấu sai lỗi của mình. Dù được hay thua, cũng phải chơi cho đúng cách và chơi cho thật đẹp. Phải tôn trọng tinh thần thể thao hơn là chiến thắng. Ngoài ra, chơi cho đúng cách còn có nghĩa là phải biết tự chủ, đừng cố tình chơi xấu làm người khác bị tổn thương. Chẳng hạn cố tình "cốp" vào chân đối phương đễ họ bị "đo sân" và phải bỏ dở cuộc chơi. Ðây là trò chơi xấu mà chúng ta thường thấy đó đây trong các trận đá banh, hoặc ngược lại, đối phương có lỡ chân đụng phải, chẳng đau đớn gì bao nhiêu cũng nằm lăn quay ra ăn vạ để trọng tài "hít-còi phạt"...
Khi về già, tướng Wellington, ngày kia đã trở lại thăm trường cũ. Ông đưa mắt nhìn khoảng sân rộng, nơi mà hồi xưa ông đã vui chơi với bạn bè. Rồi bằng một dáng bộ trầm ngâm, ông nói:
- Chính tại sân chơi này mà tôi đã thắng được Napoléon.
Ðúng thế, chính tại sân chơi này, ông đã học được những bài học của sự can đảm, tự tin, cộng tác và yêu thương để rồi khi bước xuống cuộc đời ông đã thắng được mọi nỗi khó khăn, kể cả việc thắng được Napoléon tại Waterloo.
Tiếp đến là sự nghỉ ngơi của quí vị người nhớn.
Sự nghỉ ngơi này xem ra nhiêu khê và rắc rối hơn. Thời gian nghỉ ngơi phải là thời gian bồi bổ cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Thực vậy, nhờ nghỉ ngơi, thân thể lấy lại được sức khỏe, nhờ rảnh rỗi mà chúng ta có thể trau dồi thêm cho mình những điều cần thiết, chu toàn bổn phận tôn giáo, chăm sóc đến những người thân yêu như vợ chồng, con cái hay thực hiện công việc bác ái đối với những người chung quanh. Thế nhưng, rất nhiều lần người ta đã không làm như vậy.
Ðúng thế, có những ông chồng đi làm về liền nằm dài trên ghế mà đọc báo hay xem truyền hình và...chờ cơm, chẳng hề phụ giúp cho bà vợ trong chuyện bếp múc và nhà cửa. Nhất là vào cuối tuần, những ông chồng ấy liền vù đi đánh bài hay nhậu nhoẹt với bè bạn, mãi tới sáng thứ hai mới dẫn xác về. Thành thử những ngày nghỉ cuối tuần, đáng lẽ ra phải là dịp cho mọi người đoàn tụ và xum họp, thì bây giờ đường ai người ấy đi, việc ai người ấy làm. Ngày Chúa nhật cũng giống như ngày thường, gia đình lạnh lẽo và trống vắng như...Chùa Bà Ðanh. Thậm chí có bà vợ đã phải tâm sự:
- Cuối tuần, mình rất muốn anh ấy ở nhà để vợ chồng tâm sự với nhau, cha mẹ trò chuyện cùng con cái, nhờ đó gia đình được thêm phần ấm cúng. Nhiều lúc mình mong nhận được những lời an ủi, hay ít nhất một bờ vai để tựa đầu mà cũng chẳng thấy. Nghĩ cũng tủi. Một mình vò võ. Chồng đi đằng chồng. Con cái đi đàng con cái. Biết làm sao bây giờ?
Trên đây mới chỉ là sự nghỉ ngơi ngắn hạn như cuối ngày hay cuối tuần. Còn sự nghỉ ngơi tương đối dài hơn, chẳng hạn như nghỉ hè, thì sao?
Với một cuộc sống ổn định và nhất là với một số "đô la" kha khá dằn trong bóp hay trong túi áo, người ta có quyền nghĩ đến và vẽ ra cả một chương trình cho chuyến đi nghỉ hè.
Ðây không còn là chuyện riêng tư của một thiểu số, nhưng đã trở thành chuyện chung chung của nhiều người. Kẻ phương tây thì chạy sang phương đông và trái lại người phương đông lại chạy sang phương tây. Kẻ phương bắc chạy xuống phương nam và trái lại người phương nam lại chạy lên phương bắc...thôi thì cứ loạn cào cào, muốn đi đâu thì đi, miễn là có...tiền.
Riêng người Việt Nam mình ở nước ngoài thì như thế nào?
Nếu ngân sách eo hẹp, người ta có thể dắt bầu đoàn thê tử đi từ thành phố này qua thành phố khác trong cùng một nước. Chẳng hạn ra biển hay ven hồ để tắm nắng, hoặc lên núi để nhìn mây bay bay cũng như nghe suối chảy róc rách và thác đổ ầm ầm.
Còn nếu tiền bạc rủng rỉnh, người ta có thể đi nghỉ hè xuyên lục địa, từ nước này đến nước khác. Nhất là những nơi có nhiều danh lam thắng cảnh. Trong số những nước được đưa vào chương trình, thì hẳn phải có tên Việt Nam.
Thực vậy, người Việt Nam trở về Việt Nam có thể là thượng sách đối với một số người, bởi vì Việt Nam chính là quê hương của mình. Và nếu dẫn theo con cái nữa thì lại càng tuyệt vời. Bởi vì con cái, nhiều đứa sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, chả có mấy tí hiểu biết về Việt Nam. Dẫn chúng về để chúng nhìn thấy đất nước mình hầu tạo được một gắn bó nào đó. Bằng không, một thời gian sau chúng hoàn toàn bị "Tây hóa" hay "Mỹ hóa" và sẽ bị...mất gốc.
Chúng ta cứ quên những nơi nghỉ hè lý tưởng khác và tạm bàn về nghỉ ở Việt Nam xem có cái lợi nào?
Cái lợi thứ nhất, đó là hâm nóng lại tình nghĩa ruột thịt, bè bạn, làng xóm. Ðúng thế, người Việt Nam mình vốn trọng nhân nghĩa, như tục ngữ đã xác quyết:
- Miếng trầu nên nghĩa, chuyến đò nên duyên.
Thế nhưng, tình nghĩa ấy dù có mặn nồng, nhưng không được hâm nóng, thì dần dần cũng sẽ nguội. Thời gian và không gian sẽ gậm nhấm và làm cho nhạt phai, như tục ngữ đã bảo:
- Xa mặt, cách lòng.
Hay như người dân tộc Tày-Nùng đã nói:
- Ðường không qua lại cỏ tranh mọc,
Anh em không đi về thành người dưng.
Cái lợi thứ hai đó là giá cả sinh hoạt ở Việt Nam khá rẻ so với những nơi khác. Vì thế, với đồng đô la, người ta có thể mua sắm đủ thứ ở Việt Nam. Với đồng đô la, người ta có thể giúp đỡ bà con, thiết đãi bạn bè mà không hao xót lắm. Với đồng đô la, người ta có thể sống thoải mái trên đất nước này...ngay cả việc "sắm" cho mình một cô vợ trẻ cũng không quá tốn kém. Và còn nhiều cái lợi khác nữa tùy theo đích nhắm của từng người. Dĩ nhiên gã không bao giờ làm quảng cáo cho các hãng du lịch, nhưng chỉ muốn nói lên tình cảm chân thành nhất của những con người rời xa quê hương, bởi vì:
- Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Có những người, thoạt đầu khi nói về Việt Nam thì đã dãy đay đảy như đỉa phải vôi, bởi còn đeo nặng dĩ vãng kinh hồn nào đó. Có khi nghĩ rằng Nước Việt Nam bây giờ chán lắm! toàn bọn Việt Gian tìm cách gian lận, làm tiền theo kiểu Bác và Ðảng. Ðiều đó đúng lắm chứ, vì bề ngoài Bác và Ðảng không dạy gian lận đánh lừa thiên hạ, nhưng trên thực tế đó là chính sách căn bản của Ðảng cộng sản! Bởi dù gian lận thế nào đi nữa, ngay cả sự gian lận gây thiệt mạng cho dân chúng và kẻ vô tội mà việc làm ấy có lợi cho Bác và Ðảng thì nhà nước ta vẫn cắm đầu thực hiện! Nếu có ai biết được sự gian manh này của Nhà Nườc Việt Cộng mà dám há mồm nói ra thì lại bị kết án là phá rối an ninh quần chúng, nghĩa là "cản mũi" gian lận của Ðảng! và thế là đáng phải chết! Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không về hoặc cho rằng mình là kẻ đã mất nước! Vì Việt Nam vẫn còn đó, đất nước ấy là của chung mọi con dân Việt Nam chứ đâu có phải của riêng đảng phái nào. Do đó, nối lại tình nghĩa gia đình ruột thịt, sẽ thấy tâm hồn mình ấm lên tình người và rất có thể sau lần đầu, sẽ không ngần ngại hẹn gặp lại nhau một ngày gần nhất như bao người đã từng phản ứng và từng làm. Ðiều quan trọng hơn nữa là Việt Kiều về lại Việt Nam, thì cũng mang theo một sứ diệp tự do cho Việt Nam. Bởi lẽ cũng là con người, sao sống ở nước ngoài lại được tự do bay bổng và có đời sống tương đối sung túc hơn những người sống ngay trên đất nước mình sinh ra?
Tuy nhiên, trong việc trở về Việt Nam cũng có một vài chuyện lôm côm, những chuyện lôm côm này gã đã từng mổ xẻ nhiều lần.
Chuyện lôm côm thứ nhất đó là bệnh nổ. Nhiều ông ở bên ngoại quốc chỉ là dân cu li cu leo, nhưng về Việt Nam bèn nổ tung và nghiễm nhiên trở thành bác sĩ, kỹ sư, chuyên viên này, chuyên viên nọ. Có những ông Việt Kiều phải chạy đi vay ngân hàng hay bè bạn mới có tí tiền còm dằn túi, nhưng về Việt-Nam liền ăn tiêu xả láng cho thiên hạ phục sát đất. Có những ông hay những bà từ ngày ra nước ngoài chỉ làm một công việc đơn thuần là "ăn xin" xã hội, thế mà về Việt Nam cũng xum xoe như bà chúa, làm ra như tiền bạc của mình có dư có thừa, nhưng thực ra là "lấy của người" mà thôi! có những ông ở âu-Mỹ chỉ biết nói chuyện với Mỹ với Tây bằng tay và rất thạo chia động từ "to quơ", nhưng về bên này mở mồm ra nói, thì câu nào cũng chêm nấy tiếng Ăng lê hoặc tiếng gì đó cho ra vẻ con nhà học thức...Rồi thì chê ỏng chê eo nhưng điều kiện sinh sống tại Việt Nam, mà không nghĩ ra rằng mình cũng đã từ ở trong cái chỗ ấy mà chiu ra thôi!
Chuyện lôm côm thứ hai đó là bệnh lừa gạt. Với cái mác Việt kiều, người ta sẵn sàng gạt tiền của người khác bằng cách bỏ vốn ma đầu tư cho những công ty ma, nghĩa là chẳng có trên thực tế. Với cái mác Việt kiều, người ta sẳn sàng lừa tình của những cô gái nhẹ dạ. Mặc dù ở bên đó đã đùm đề vợ con, nhưng về bên này vẫn muốn kiếm tí tình còm vắt vai để được chiều chuộng thỏa mãn mà chẳng tốn kém bao nhiêu... Nhưng coi chừng đấy, cháu ngoan "Bác Hồ" đã từng lừa cả các đế quốc vĩ đại, thì mấy anh việt kiều cắc ké có khôn mấy cũng chẳng đạt được "chỉ tiêu" so với con cháu Bác đâu!
Riêng các bà các cô, thì nhiều người về bên VN bỗng dưng máu "shopping", mua sắm nổi lên đùng đùng. Vì hàng ở bên này vừa rẻ lại vừa đẹp, nên nhìn thấy cái gì cũng mua cũng sắm.
Gã đã từng tháp tùng vợ chồng một chú em đi...chợ. Chị vợ luôn tay chỉ trỏ:
- Cái này, cái kia....và cái kia nữa.
Lúc đầu anh chồng còn vui vẻ để chứng tỏ mình "ga lăng", nhưng rồi khuôn mặt bắt đầu đổi sắc, nhăn nhó và kèm theo cả một vài lời gắt gỏng:
- Mua gì mà mua lắm thế.
Thậm chí anh chồng phải lén tới chi nhánh ngân hàng rút tiền "ngoài dự tính" để trang trải cho những mua sắm phụ trội. Cuối cùng, những thứ mua sắm phụ trội này đành phải để lại Việt Nam vào tối hôm trước ngày ra phi trường vì không còn chỗ để mà chứa...
Kể ra thì còn dài dòng lắm, vì chuyện Việt Kiều cũng chẳng thua gì chuyện Việt Cộng. Nhưng thôi! ai cũng biết rồi!
Chung quanh nhà chả có cây phượng nào. Mà phượng ở Việt Nam bây giờ cũng thay đổi theo thời tiết, nở hoa vào khoảng cuối tháng ba và khi hè về thì đã tàn. Riêng cái nắng thì vẫn chói chang như đổ lửa. Chính trong bầu khí oi ả này, gã bỗng nhẩm đi nhẩm lại bài "Hè về" đượm sắc tình Việt Nam của Hùng lân như một kết thúc:
Hè về trong khóm trúc mềm đầu bờ,
Hè về trong tiếng gió chiều dật dờ,
Hè về gieo ánh tơ...
Như thế người ta chỉ có những ngày nghỉ hè tuyệt vời và đúng nghĩa với một tâm hồn đẹp mà thôi!
|
|
|