BÍ TÍCH

BA MỤC ÐÍCH CỦA BÍ TÍCH

Tháng trước chúng ta đã đưa ra ba điều kiện để làm thành một Bí tích, đó là dấu bề ngoài, ơn bề trong và do Chúa Giêsu thiết lập.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã lập các Bí tích để làm gì?

Cộng đồng Vatican II trong hiến chế về phụng vụ đã đem lại cho chúng ta câu trả lời như sau:

"Các Bí tích có mục đích thánh hóa con người, xây dựng thân thể Ðức Kitô và sau cùng là thờ phượng Thiên Chúa.

Tuy nhiên là những dấu chỉ, các Bí tích còn giữ vai trò giáo huấn nữa. Không những các Bí tích giả thiết phải có đức tin, mà còn dùng lời nói và sự vật để nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin. Vì thế được gọi là các Bí tích đức tin.

Thực ra, các Bí tích ban ơn sủng, nhưng việc cử hành các Bí tích còn là việc chuẩn bị các tín hữu đón nhận ơn sủng đó một cách hữu hiệu, để thờ phượng Chúa đúng cách và để thực thi đức bác ái.

Do đó, việc rất quan trọng là làm sao cho các tín hữu dễ dàng hiểu được những dấu chỉ của các Bí tích, và hết sức siêng năng lui tới đón nhận các Bí tích, là những Bí tích được lập ra để nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu''.

Dựa vào đoạn văn trên chúng ta ghi nhận được ba mục đích chính yếu của Chúa Giêsu khi Ngài thiết lập các Bí tích, đó là tiếp tục công cuộc cứu rỗi loài người, xây dựng Hội Thánh và thờ phượng Thiên Chúa.

1- TIẾP TỤC CÔNG CUỘC CỨU RỖI

Mục đích thứ nhất chúng ta tìm hiểu đó là các Bí tích tiếp tục công việc cứu rỗi của Chúa Giêsu. Như chúng ta đã biết:

- Chúa Giêsu xuống thế làm người là để cứu chuộc nhân loại.

Công cuộc trọng đại này được thực hiện qua những đau khổ Ngài phải chịu, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá.
Thế nhưng ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Ngài không còn ở giữa chúng ta để giảng dạy và xoa dịu những đớn đau của thân phận con người.
Chính vì thế, để áp dụng công ơn cứu rỗi cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, Chúa Giêsu đã thành lập Giáo Hội đồng thời trao ban cho Giáo Hội những Bí tích, là những phương tiện để ban phát và chuyền thông ơn cứu độ cho chúng ta...
Thực vậy, dựa vào Kinh Thánh cũng như lịch sử, chúng ta thấy:

- Ðức Kitô khi còn sống ở trần gian qua lời nói, cử chỉ và thái độ, đã muốn và đã thực sự tiết lập bảy Bí tích.

Chẳng hạn chính Ngài đã truyền dạy những người gia nhập Hội Thánh phải được sinh lại bởi nước và Chúa Thánh Thần. Rồi trước khi về trời Ngài đã truyền cho các môn đệ:

- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Chẳng hạn chính Ngài đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ và muốn các ông và những đấng kế vị giữ vai trò hoàn tất công việc gia nhập nước trời, tức là ban Bí tích Thêm Sức. Sách Tông đồ Công Vụ ghi nhận rằng:

Các tông đồ tại Giêrusalem, khi nghe tin xứ Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, thì các ngài gửi Phêrô và Gioan đến với họ. Các ngài xuống đó và cầu nguyện cho họ nhận lấy Chúa Thánh Thần. Vì Chúa Thánh Thần bấy giờ chưa xuống trên một ai trong họ là những người mới được thanh tẩy nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ và họ đã nhận lấy Chúa Thánh Thần.

Chẳng hạn chính Ðức Kitô đã muốn các tín hữu kết hiệp chặt chẽ với Ngài và với nhau, nên Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể vào chiều thứ năm tuần thánh tại phòng tiệc ly.

Chẳng hạn chính Ðức Kitô đã muốn các môn đệ và những đấng kế vị các Ngài được quyền tha thứ và giao hòa tội nhân với Thiên Chúa:

- Sự gì các con cởi mở ở dưới đất thì trên trời cũng cởi mở.

Chẳng hạn chính Ðức Kitô đã mong muốn Giáo Hội bắt chước Ngài nghiêng mình trên những bệnh nhân để giúp họ biết thánh hóa những đớn đau phải chịu. Vì vậy, thánh Giacôbê tông đồ đã truyền lại:

- Nếu ai trong anh em bị đau ốm, thì hãy mời các Linh mục của Giáo Hội đến. Cón các ngài thì hãy cầu nguyện cho người đó, sau khi đã xức dầu nhân danh Chúa.

Chẳng hạn để rao giảng Tin mừng, để chăn dắt đoàn chiên, để chủ tọa thánh lễ, chính Ðức Kitô đã chọn các tông đồ và thiết lập Bí tích truyền chức khi Ngài nói với các ông:

- Các con hãy làm việc này mà nhớ đến ta.

Chẳng hạn chính Ðức Kitô đã muốn hôn nhân giữ vai trò thánh thiện, trong cộng đồng dân Chúa. Ngài đã rút lại luật cho phép đa thê, trở về luật nguyên thủy của Thiên Chúa và Ngài long trọng xác nhận đặc tính của hôn nhân Kitô giáo là đơn hôn và vĩnh hôn, tức là chỉ được phép một vợ một chồng và phải trung thành với nhau cho đến chết.

Thánh Phaolô nhắc lại chủ trương của Chúa Giêsu và mô tả vẻ cao quí và thánh thiện của hôn nhân công giáo bằng hình ảnh sự hiệp nhất giữa Ðức Kitô và Giáo Hội.

Từ những điều vừa trình bày, một lần nữa chúng ta xác quyết:

- Chính Chúa Giêsu đã thiết lập bảy Bí tích, là như bảy chiếc máng, bảy con kênh dẫn giòng nước ơn sủng chảy vào trong tâm hồn chúng ta.

Tại miền núi, nước mưa thường đọng lại tại những mặt hồ. Người ta xây đập để giữ nước, rồi sau đó đặt những ống cống cho nước đổ xuống một cách điều hòa, tưới mát cho những cánh đồng phì nhiêu cũng như để chạy những máy phát điện. Chẳng hạn công trình thủy điện Ða nhim, Trị an ở Việt Nam...

Còn tại vùng đồng bằng, vào mùa thủy lợi, người ta thường đào những con kênh để dẫn nước từ giòng sông vào những thửa ruộng thần nông trong thời tiết nắng hạn.

Cũng thế, bảy Bí tích là như bảy chiếc máng, bảy con kênh, bảy phương tiện Chúa dùng để chuyển thông kho tàng ơn cứu độ vào trong tâm hồn chúng ta. Bảy phương tiện này Chúa đã trao vào tay Hội Thánh vì Hội Thánh có nhiệm vụ tiếp nối công cuộc cứu độ của Ngài cho đến tận cùng thời gian.
Bởi đó chúng ta thường nói:

- Giáo Hội chính là Ðức Kitô được kéo dài qua giòng thời gian. Vì thế, Hôi thánh lặp lại những hành động mà ngày xưa Chúa Giêsu đã làm để cứu độ chúng ta.

Thực vậy, ngay từ những tháng ngày đầu tiên, các tông đồ đã rửa tội cho những người trở lại, đã đặt tay trên họ để trao ban Chúa Thánh Thần, đã cử hành nghi thức bẻ bánh, đã tha thứ cho các tội nhân, đã xức dầu cho những người đau yếu, đã phong chức cho các Linh mục và đã thánh hóa đời sống hôn nhân.

Ðó không phải là những nghi thức do các tông đồ bịa đặt, nhưng các Ngài thực hiện theo lệnh truyền của Chúa. Và hơn thế nữa, khi các Ngài cử hành các Bí tích, chính Chúa Giêsu đã hành động để ban ơn thánh cho chúng ta. Các ngài cũng như các thừa tác viên của Bí tích, chỉ cử hành nhân danh Chúa Giêsu, còn Chúa Giêsu mới chính là nguyên nhân ban phát các ơn phúc.

Chúa Giêsu không phải là một người sáng lập ra một tôn giáo mới như Ðức Phật thích ca, như Mahomet...Họ đưa ra một tôn giáo mới và tôn giáo mới này cứ tiếp tục tồn tại và phát triển mà không cần sự có mặt của họ, nhưng dựa vào những qui luật, những nguyên tắc đã được ấn định.

Chúa Giêsu thì khác. Cho đến ngày hôm nay, Ngài vẫn còn là một vị thủ lãnh sống động của Giáo hội. Ðức thánh cha không phải là đấng kế vị mà là đấng thay mặt cho Ðức Kitô. Sứ mệnh của Ðức Kitô không chấm dứt với cái chết trên thập giá, mà vẫn còn tiếp nối qua vai trò của Giáo hội trong giòng thời gian. Giáo hội là thân mình mầu nhiệm mà Ðức Kitô là đầu. Vì thế, khi Giáo Hội cử hành các Bí tích. Thì chính Ðức Kitô hành động để ban ơn thánh.
Vì thế thánh Âugustinô đã nói:

- Phêrô làm phép rửa ư ? Không, nhưng chính là Chúa Giêsu. Phaolô làm phép rửa ư ? Không, nhưng chính là Chúa Giêsu.

Các nhà thần học đã dùng kiểu nói: phát sinh hiệu quả tại việc đã cử hành, để chỉ cách thế các Bí tích làm phát sinh hiệu quả trong tâm hồn mỗi người bất chấp tư cách của các thừa tác viên.

Chẳng hạn như khi một người ngoại giáo làm phép rửa tội. Nếu làm theo đúng thể thức của Giáo Hội, thì Bí tích Rửa tội ấy vẫn thành và người chịu cũng được khỏi tội. Vậy mục đích đầu tiên của các Bí tích là tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu ở trần gian.